[Ngoaì Lề] Phong tục đám cưới Việt Nam

nghesyngheo

Già Làng
Tham gia
28/7/10
Bài viết
1,690
Được Like
5,618
Tuổi
38
Nơi ở
Nam Định - Bình Dương
Mình sưu tầm 1 số phong tục trong việc tổ chức cưới hỏi của Việt Nam. Các anh em đi chụp hình hay quay phim nếu lắm rõ những phong tục này rất có lợi cho công việc. ngoài việc có thể làm đaọ diễn, chủ động trong tình huống và còn có thể chém gió với các cụ già nữa


Nghi thức cổ truyền và hiện đại
Trong phong tục của người Việt, Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình và có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được xã hội quan tâm nhiều hơn cả.Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo từ "hôn lễ" trong tiếng Hán). Điều đó chứng tỏ vị trí rất quan trọng của lễ này trong hệ thống hôn lễ.
Ý nghĩa của lễ này là công bố sự thành hôn của đôi trai gái, vì thế lễ này còn gọi là lễ thành hôn. Tuy nhiên, thực tế lễ cưới bao gồm hai nghi lễ lễ vu quy nơi nhà gái và lễ thành hôn nơi nhà trai, sau khi đã đón dâu về.Ở phương diện luật định, sau khi đăng ký kết hôn đôi trai gái trước pháp luật đương nhiên là vợ chồng và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong tâm thức và văn hóa dân tộc, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức công nhận đôi trai gái là vợ chồng. Cũng vì vậy, tại lễ cưới nhiều vấn đề xã hội diễn ra, khen chê của dư luận xã hội đều tập trung vào đó, "ma chê cưới trách". Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi sự khen chê ấy không đồng nhất, thậm chí còn đối lập nhau. Ví dụ: ngày nay một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì cho rằng thế mới là đám cưới Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hoá bên ngoài, nhưng người chê thì lại nói rằng thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ.

Bái tổ tiên : Lễ này muốn nhắc nhở mọi người luôn phải nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của mình.Ngày nay các đôi trai gái còn có lễ tạ ơn đối với các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh thân mình cho độc lập - tự do của dân tộc

Lễ trao nhẫn : Nhẫn cưới được làm hình tròn, nó biểu tượng cho tình yêu không có điểm đầu và điểm kết thúc. Chú rể đeo nhẫn cho cô dâu, cô dâu đeo nhẫn cho chú rể. Đây là nghi lễ không thể thiếu, nó tượng trưng cho đôi trai gái đã trao cho nhau tất cả tình yêu mãnh liệt, tâm hồn thể xác họ luôn thuộc về nhau

Lễ tạ công ơn sinh thành : Ngày trước các đôi trai gái vào ngày thành thân phải khấu đầu 3 lần để tạ công sinh thành của ông bà, cha mẹ để tỏ lòng hiếu kính. Ngày nay nghi lễ này đã được các nhà tổ chức chuyển đổi sang nghi lễ Rót rượu kính cha mẹ để bày tỏ sự hiếu kính của đạo làm con.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời ký "mở cửa", theo đó một số nghi lễ cưới hỏi của nước ngoài cũng được du nhập vào nước ta. Ở đâu đó đã xuất hiện các tiệc cưới mà khách mời đến đầy đủ rồi cô dâu chú rể mới xuất hiện. Hoa và dây màu được tung lên chào đón, chúc mừng đôi uyên ương, một chiếc bánh cưới rất đẹp được đặt nơi trang trọng nhất của phòng tiệc, lễ rót rượu champagne mới lạ, lôi cuốn sự chú ý của mọi người, khác với phong tục truyền thống lâu đời nay ta vẫn gặp. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn. Chúng tôi xin được giới thiệu thêm để các bạn tham khảo.

Lễ giao tay nâng rượu : Biểu tượng cho sự tâm đầu ý hợp của đôi trai gái. Đôi trai gái nhâm nhi thưởng thức sự ngọt ngào men nồng của tình yêu đôi lứa. Trong lúc này các nhà tổ chức chuyên nghiệp thường hướng tất cả sự chú ý của toàn bộ khách mời tới Cô dâu - Chú rể và dành cho họ tràng pháo tay thật lớn. Lúc đó cảm xúc trào dâng trong khoảnh khắc tuyệt vời của đôi trai tài gái sắc

Lễ cắt bánh cưới : Bánh cưới có thể được làm to hay nhỏ, 3 - 5 tầng, nhưng lễ này tượng trưng cho đôi trẻ cùng nhau tận hưởng sự ngọt ngào, êm ái của tình yêu, thể hiện sự may mắn trong cuộc sống sinh sản của Cô dâu - Chú rể.

Lễ rót rượu champagne : Ở đây, tháp champagne được xếp 5 - 7 tầng, mỗi tầng là hình tam giác được xếp chồng lên nhau bởi những chiếc ly trong suốt. Lễ này tiêu biểu cho tình yêu của đôi trai gái rất trong trắng và luôn bền vững. Bởi lẽ tháp champagne là hình tượng vĩnh hằng một khối thống nhất. Chú rể mở rượu champagne tiếng nổ tượng trưng báo hỷ, sau đó chú rể cầm chai champagne, cô dâu đỡ chai rượu rót chảy tràn trên những chiếc ly - có ý nghĩa hạnh phúc của họ là mãi mãi, luôn tràn đầy như những ly rượu. Sau đó chú rể nhấc hai ly rượu, đưa cho cô dâu một ly, hai người khoác tay nhau cùng uống, điều này bảy tỏ sự tâm đầu ý hợp chung thủy muôn đời
 
Phần 2: Phong tục đám cưới Nam Bộ
Ở Nam bộ, lễ cưới vợ cho con trai gọi là “tân hôn”, lễ gả con gái gọi là “vu qui”. Chữ “hôn” trong sách Lễ ký có nghĩa là buổi chiều, vì theo phong tục cổ thì đám cưới đều tổ chức vào buổi chiều. Cũng có thuyết nói “hôn” có nghĩa là cô dâu, là người vợ mới cưới (tân nương). Từ đó suy luận hôn lễ của người Á Đông theo qui định Nho giáo thuộc chế độ phụ hệ. Ngoài ra từ “giá thú” cũng phổ biến. “Giá” là gả chồng. “Thú” là cưới vợ. Theo tài liệu của Huỳnh Tịnh Của ghi chép, khoảng cuối thế kỷ XIX trong sách Gia lễ hoặc Đại Nam quấc âm tự vị, ở Nam bộ có từ “tiểu đăng khoa” chỉ đám hỏi, “đại đăng khoa” chỉ đám cưới. Hai từ nầy dùng có ý chế nhạo những anh chàng nhà nghèo thi đậu Tiến sĩ cỡi ngựa dạo phố bị mấy tiểu thư đứng trên lầu ném tú cầu “bắt lấy hồn xác”. Nhưng không hiểu tại sao vào cái thời Nho học còn thịnh hành mà chữ nghĩa dùng sai lệch như thế!

Hôn lễ ngày xưa thường kéo dài hai ngày:

Ngày hôm trước là ngày nhóm họ, thiết đãi thân tộc bè bạn của nhà trai cũng như nhà gái. Riêng chú rể đến giờ phút nầy phải đến nhà gái là lễ “thám hôn” – tức làm rể lần cuối, (hiện nay gọi là kiếu rể), nhưng thực tế là khéo léo dò xét, sợ cô dâu bị ép gả bỏ trốn, hôm sau nhà trai đến sẽ bị hụt hẩng.
Tối hôm đó, chú rể hoặc cô dâu phải dâng nhang đèn trà nước làm lễ tổ tiên và lạy chào cha mẹ, ông bà, chú bác, cô dì...Mỗi người sẽ uống ly rượu, ly trà và tặng cho chú rể hoặc cô dâu một phong bao tiền. Cha mẹ, ông bà có lời căn dặn chú rể hoặc cô dâu. Nghi thức nầy gọi là “chịu lạy”.
Tại nhà trai cũng như nhà gái đều phải dựng trại trước nhà. Bà con lối xóm, kể đến phụ làm heo, ép bún, mượn bàn ghế, ngựa, phản...Chị em phụ nữ lo nấu nướng...công việc chuẩn bị rất vất vả, mệt nhọc nhưng thể hiện đuợc tinh thần đoàn kết xóm làng. Trại tiệc cưới đều được kết bằng lá đủng đỉnh, bằng bẹ chuối, lá cây nhiều màu, lá dừa, bông dừa...và các loại vật liệu tự nhiên khác, lâu khô héo. Cửa ngỏ đám cưới treo hoành phi làm bằng lá chuối non, bằng các loại hạt đậu hoặc gạo nhuộm nhiều màu. Hoành phi nhà trai treo chữ “Tân hôn”, nhà gái treo chữ “Vu qui”. Nhiều trại tiệc treo đèn lồng, lập bàn hương án, trên bày lư đỉnh, bình hoa, dĩa quả tử có các sự tích nhân vật cố sự... kết toàn các loại hoa trái.
Trước năm 1945, trong ngày cưới hỏi, tất cả những thành viên hai họ đều mặc quốc phục. Nam mặc áo dài đen, bịt khăn đóng. Nữ mặc áo dài, đều đội khăn, đội nón hoặc che dù. Đám thanh niên khiêng đội lễ vật hoặc có trẻ em đi theo cũng phải mặc áo dài:

Gái nhỡn nha tay vòng, tay niểng
Trai xênh xang chân hán, chân hài.

Y phục chú rể và cô dâu đặc biệt hơn: chú rể bịt khăn đen, mặc áo rộng xanh hai lớp, chân đi giày hàm ếch. Theo tục xưa, chú rể ôm một quả nếp. Cô dâu đầu để trần, khi ra đường thì đội nón cụ, mặc áo rộng màu hồng hai lớp, chân đi dép hoặc hài. Trên đường đi, họ được hai thiếu niên khăn áo chỉnh tề cầm hai cây lọng che đầu.
Đúng giờ qui định, họ nhà trai phải đến trước cổng sớm, chờ xin phép vào làm lễ đón dâu. Theo tục xưa, giờ vào cửa rất quan trọng. Nhiều trường hợp nhà trai đứng dầm mưa trong khi nhà gái vẫn đóng kín cổng. Tương truyền có gia đình bất mãn, bỏ về cưới vợ khác cho con trai. Nhưng cũng có gia đình không bao giờ chú ý đến giờ giấc, khi hay tin nhà trai đến đã lật đật cử người bưng khai trầu rượu ra cổng rước vào. Khách đi đón dâu gồm người làm mai, cha mẹ, ông bà, thân tộc, bạn bè và chú rể. Nhà gái cũng chuẩn bị đưa dâu gồm ông bà, cha mẹ, thân tộc, bè bạn...có thể đến 5 –6 chục người. Thông thường phải có đôi, có ông phải có bà, có nam phải có nữ, cho nên nhà trai đi rước dâu phải đi lẻ để khi đón dâu về thì chẵn đôi.
Lễ vật cúng trước bàn thờ tổ tiên nhà gái cũng tương tự như lễ hỏi, gồm:
- Một đôi đèn sáp.
- Một mâm trầu cau.
- Hai choé rượu lễ.
- Sáu mâm lễ vật gồm: trái cây, bánh ngọt, trà, rượu, kẹo, mứt...
- Tặng vật cho cô dâu gồm nhẫn, dây chuyền...
Sau khi giới thiệu, trà nước xong, người trưởng tộc nhà trai đem trầu rượu trình lễ vật và xin nhà gái cho phép chú rể làm lễ tổ tiên và chào hỏi ông bà, cha mẹ, bà con thân tộc. Nhà gái sẽ cử một người trong họ phúc lộc vẹn toàn đến đốt hương, đốt đèn để chú rể dâng lên bàn thờ và lạy 4 lạy, xá 3 xá. Đứng hai bên chứng kiến là cha mẹ chú rể và cô dâu. Sau khi chú rể làm lễ tổ tiên xong thì đến từng bàn làm lễ cha mẹ, ông bà, nội ngoại, thân tộc. Theo tục xưa, chú rể phải lạy sống 2 lạy, 3 xá.
Nếu đường xa, nhà gái phải bày tiệc chiêu đãi nhà trai. Trong trường hợp không cần tiệc tùng thì họ cũng dùng trà nước hay nhắm tí rượu lễ rồi chuẩn bị lên đường. Cô dâu làm lễ từ giã tổ tiên, từ giã cha mẹ, ông bà. Từ đây họ đã là vợ chồng. Từ lúc nầy cho đến khi về đến nhà trai họ phải cận kề nhau, không để người thứ ba xen vào giữa, kể cả một đứa trẻ.
Khi đến nhà trai, lúc hai họ bước vào cổng cũng có pháo nổ mừng. Sau đó chương trình lễ cũng lập lại giống như ở nhà gái, nhưng có thêm nghi thức tế Tơ hồng Nguyệt lão và nghi thức mai nhân cúng tổ.
Sau đó, đôi trai gái vào lạy 4 lạy, 3 xá, rồi chồng lấy rượu mời vợ; Vợ bưng rượu mời chồng. Uống xong, cả hai lấy hai cái chén úp lại, gọi là giao bôi hợp cẩn.
Khách khứa ra về hết, nhà cửa dọn dẹp xong. Nếu khoảng cách không xa thì chú rể phải đưa vợ về thăm nhà trong phút chốc. Còn nếu quá xa xôi thì phải đợi đến ngày Nhị hỉ.
Chiều hôm đó, cô dâu mới đem trà nước mời cha mẹ, ông bà và anh em trong gia đình, cầu mong sự giúp đỡ, tha thứ nếu sau nầy có những sai sót. Cha mẹ chồng sẽ thay mặt gia đình khuyên nhủ cô dâu mới. Do đó, nghi thức nầy được gọi là lễ “công cô” – mục đích tạo điều kiện cho hai bên hiểu biết nhau.
Ba ngày sau đám cưới, đôi vợ chồng mới cùng cha mẹ, anh chị em của chú rể đem một cặp vịt đến nhà gái làm lễ nhị hỉ, phản bái, hay còn gọi là lễ giở mâm trầu.
Tục xưa qui định, cặp vịt nầy phải là con trống con mái, nhưng kỵ nhất là vịt lông trắng. Có người giải thích cặp vịt tượng trưng cho cặp ngỗng (như ở Thừa Thiên) hoặc một cặp chim nhạn (như ở Trung Quốc). Cũng có người giải thích, cặp vịt dùng để nấu cháo cúng tổ tiên trong trường hợp hôm đám cưới không thể làm lễ tại từ đường, hoặc cúng Táo quân để cho cô dâu làm lễ từ biệt nên gọi là “phản bái”.
Bên cạnh, có giải thích cho rằng phản bái là ngày để hai gia đình gặp mặt kết thân vui vẻ, nên gọi là “nhị hỉ”. Tục xưa trong ngày phản bái kết thúc hôn lễ có nghi thức giở mâm trầu. Nghi thức phải có hai đứa trẻ cầm một tấm vải đỏ che trước mâm trầu để đôi vợ chồng mới chia trầu cau cho hai họ. Người ta tin rằng lúc ấy nếu ai giành lấy phần nhiều thì sau nầy tương lai gia đình sẽ giành phần hơn. Do đó nhiều bậc làm cha mẹ đã xúi con trai mình lúc giở mâm trầu phải nhanh tay hơn vợ để sau nầy không bị vợ ăn hiếp, hàng xóm chê cười. Cũng có người giải thích, lúc giở mâm trầu phải lấy vải đỏ che kín để lở trầu héo cau rụng thì không ai thấy. Người ta cho rằng, hể cặp nào “tiền dâm hậu thú” thì trầu cau sẽ có hiện tượng nói trên, vì vậy phải che đậy kẻo thiên hạ đàm tiếu. Từ đó có gia đình đề phòng bất trắc xảy ra tối hôm trước đã giở mâm trầu kiểm tra nếu phát hiện có trầu héo, cau hư thì lập tức thay thế ngay.
 
Back
Top